1.Phát tâm Bồ-đề(Hoằng Hữu NVP)2.Yết-Đế,Yết-Đế(HH/NVP)3.Chùa Việt ở Thái Lan(RFA)

BƯỚC VÀO CỬA PHẬT-Quyển 3-Montreal 2010 (Hình Ngôi chùa ở Nhật)

Hoẵng Hữu Nguyễn Văn Phú

Đề tài ôn tập:Bài 16-Phát tâm Bồ-đề

Anne-Tokyo Day 3-15.jpg1

1.Để vào đề, xin trích một đoạn trong bản Văn Khuyến Phát Bồ-Đề Tâm, của đại sư Tỉnh Am, húy Thật Hiền, (ngài Tỉnh Am là tổ thứ 9 của Liên Tông Trung Quốc): “Tôi từng nghe, cửa chính yếu để nhập đạo thì sự phát tâm đứng đầu, việc khẩn cấp để tu hành thì sự lập nguyện đứng trước. Nguyện lập thì chúng sinh độ nổi, tâm phát thì Phật đạo thành được. Cái tâm quảng đại không phát, cái nguyện kiên cố chẳng lập, thì dẫu trải qua đời kiếp nhiều như cát bụi, cũng y nhiên vẫn ở trong phạm vi luân hồi. Tu hành dẫu có, cũng toàn là lao nhọc, khổ sở một cách vô ích. Do đó mà kinh Hoa Nghiêm đã nói, quên mất tâm bồ đề mà tu hành các thiện pháp thì gọi là hành động theo ma vương. Quên mất còn thế, huống chi chưa phát. Nếu muốn học Như Lai thừa thì trước phải phát bồ-đề nguyện, không thể chậm trễ”. (1)
2. Trước hết, xin nói về chữ bồ-đề. Bồ-đề do chữ pali và sanskrit bodhi phiên âm ra. Xưa dịch là Đạo. Sau dịch là Giác.
Khi Đạo sĩ Gotama chứng đắc bồ-đề thì Ngài thốt lên: “Như Lai đã chứng nghiệm Quả Vô Sinh Bất Diệt và Như Lai đã tận diệt mọi Ái Dục”. (kinh Pháp Cú, câu 153-154)
Nên nhớ rằng: Trước khi thành đạt đạo quả Phật, Ngài được gọi là Bồ-tát (Bồ-đề-tát-đỏa nói tắt) nghĩa là người có nguyện vọng thành Phật. Người muốn đắc quả Phật, phải trải qua thời kỳ Bồ-tát, một thời kỳ tích cực trau giồi và phát triển mười hạnh ba-la-mật. Trong một hệ thống thế gian, chỉ có một đấng Chánh Biến Tri. Cũng như có những loại cây, trọn đời chỉ trổ ra một bông, một hệ thống thế gian chỉ có một đấng Chánh Biến Tri (2).
Nếu có ai hỏi rằng “Bồ-tát giác ngộ những điều gì?” thì câu trả lời là: Nói chung, giác ngộ là chứng thực được Chân Lý, Chân Lý của vũ trụ, Chân Lý của nhân sinh. “Chân Lý thực sự không thể giảng dạy, mà mỗi người phải chứng nghiệm bằng bản thân, bằng nỗ lực và thất bại của chính mình qua nhiều thử thách cam go. Người đã giác ngộ chỉ có thể kể lại đoạn đường gian khổ đã đi qua, nhưng không thể diễn đạt được cái cứu cánh hạnh phúc họ đã đạt đến. Cũng như người đã đứng trên ngọn núi cao chót vót chỉ có thể mô tả con đường, ngõ ngách leo núi, nhưng không thể nào mô tả được cảm giác khi họ đang đứng ở trên cao kia, cùng với những quang cảnh trên đỉnh núi. Muốn biết tường tận như họ, chúng ta chỉ có thể nỗ lực leo núi như họ đã làm, không có cách nào khác.” (3)
[Sau khi đức Phật thành đạo dưới gốc cây tất-bát-la (pippala) thì cây đó được gọi là cây bồ-đề. Có rất nhiều tài liệu về việc này (4)].
3. Bồ-đề nghĩa là giác ngộ; bồ-đề trái nghĩa với phiền não, mê mờ, vô minh. Diệt tận phiền não thì đắc bồ-đề. Nói ngắn nhất: ai ai cũng có sẵn bồ-đề, nhưng bị phiền não che lấp, diệt hết phiền não thì bồ-đề hiện ra. Câu “phiền não tức bồ-đề” có nghĩa là phiền não và bồ-đề chỉ cách nhau có một sợi tóc, hết phiền não là có ngay bồ-đề!
Lúc đầu thì danh từ bồ-đề liên hệ đến bốn thánh đạo của các bậc nhập lưu, nhất lai, bất hoàn, la hán; các quả vị này đạt được do thành tựu viên mãn 37 phẩm trợ đạo (hay trợ bồ đề), do đoạn diệt vô minh vì Tứ diệu đế đã được viên thành.
Quan niệm của Nhất thiết hữu bộ cũng không khác: đắc bồ-đề là “không còn phải học nữa”, thực hiện xong hoàn toàn Tứ diệu đế, vô minh đã bị xóa tan và 37 phẩm trợ đạo đã hoàn mãn.
Theo Nam tông, bồ-đề nghĩa là thấu đáo và chứng đắc Tứ diệu đế, mà điểm tột đỉnh là chấm dứt khổ đau. Bồ-đề của các vị Thanh văn, Độc giác và Phật là ba thứ bậc khác nhau. Chỉ có chư Phật mới là Đại Giác hay là Toàn Giác còn các vị Thanh văn và Độc giác vẫn chưa có đủ thập lực của chư Phật (5).
Theo Đại thừa tức là Bắc tông thì bồ-đề được hiểu như là trình độ giác ngộ được rằng niết-bàn và sinh tử là một, chủ thể và khách thể là một, chứng đắc trí tuệ bát-nhã, ngộ được Phật tính của mình và tính không của vạn pháp, hoàn toàn giác ngộ tính “như thị” (6).
Theo Đại thừa, có ba thứ bồ-đề: bồ-đề của la-hán (giác ngộ cho mình), của bồ tát (giác ngộ cho mình và cho người) và vô thượng bồ-đề của Phật (đây mới đích thực là bồ-đề trọn vẹn). Bồ-đề của hàng nhị thừa tức thanh văn và duyên giác chỉ mới đoạn diệt được ngã chấp, còn như vô thượng bồ-đề thì đoạn diệt cả ngã chấp và pháp chấp. Cách hiểu này rõ ràng là coi nhẹ Tiểu thừa!
Theo kinh Pháp Hoa thì Niết-bàn của hàng nhị thừa mới chỉ là hóa thành, là chỗ nghỉ chân tạm thời mà thôi, bồ-đề này chưa rốt ráo, chưa được coi là bồ-đề trọn vẹn bởi vì chỉ khi nào đạt đến nhị không (ngã, pháp đều không) nhờ trí bát-nhã mới gọi là giác ngộ hoàn toàn được vậy. [kinh Pháp Hoa, quyển III, phẩm Hóa Thành Dụ]. Đó chỉ là những cách hiểu của Đại thừa thôi! Vì theo Tiểu thừa, kinh Pháp Hoa không do đức Phật thuyết, mà do các tác giả Đại thừa ngụy tạo ra! Hơn nữa, chính đức Phật đã dạy vạn pháp vô ngã mà lại còn chia ra ngã không, pháp không làm gì.
4. Bồ-đề tâm hay tâm bồ-đề là tâm cầu giác ngộ, nguyện thành Phật. Khi phát nguyện “Phật trí vô thượng, thệ nguyện thành” chính là phát nguyện cầu tâm bồ-đề. Năng lực của mình thì thật là ít ỏi mà khổ đau của chúng sinh thì quá lớn, quá nhiều cho nên muốn độ chúng sinh (chúng sinh vô biên, thệ nguyện độ) thì chính mình phải tu cho thành Phật; phát tâm tu thành Phật chính là phát tâm bồ-đề vậy.
■ Một việc làm tự nguyện có bốn đặc tính:
1/ nó phải phát xuất từ tâm mình muốn làm, không phải do ai bắt làm hay do hoàn cảnh thúc đẩy mà phải làm, tức là tâm phải thành thật, trong sáng.
2/ một khi mà việc đã tiến hành rồi thì không ngại khó khăn, vinh nhục, không sợ thiên hạ đàm tiếu,
3/ hậu quả ra sao, thì vẫn kiên nhẫn chịu đựng,
4/ kết quả dù mau hay chậm cũng không thành vấn đề, không sốt ruột.
[Đây là nói về việc tự nguyện phát tâm bồ-đề; còn như trong đời sống hàng ngày thì phải uyển chuyển hơn, thí dụ như khi điều khiển một xí nghiệp, có quyết định rồi thì cương quyết thi hành nhưng khi nhận thấy rõ khuyết điểm thì phải đặt vấn đề điều chỉnh].
■ Có bốn bậc bồ- đề tâm từ thấp đến cao tùy theo đẳng cấp của bồ -tát:
1/ bồ-đề tâm do lòng tin vào Phật pháp.
2/ bồ-đề tâm do ý nguyện trong sáng của các bồ-tát từ địa thứ nhất đến địa thứ bảy.
3/ bồ-đề tâm chín mùi của các bồ-tát từ địa thứ tám đến địa thứ mười.
4/ bồ-đề tâm vô thượng của chư Phật với lòng từ bi và trí tuệ vô biên. (7)
■ Tâm bồ-đề có hai phương diện: tương đối và tuyệt đối.
♦ Phương diện tương đối gồm hai giai đoạn:
1/ ý định và ý nguyện, được nung đúc bởi lòng từ bi vô hạn, đạt được giải thoát tức là đắc Niết Bàn, để mưu cầu hạnh phúc cho hết thảy chúng sinh, nghĩa là “trên cầu vô thượng bồ-đề, dưới hóa độ chúng sinh”, đó là tâm nguyện bồ-đề. Để phát triển nguyện bồ-đề, phải thực hành tứ vô lượng tâm tức là từ bi hỷ xả. Hai đại sư Shāntideva và Atīsha thường được Mật tông Tây tạng nói đến rất nhiều vì các ngài đề ra các phương cách để thực hành tứ vô lượng tâm (8).
2/ thực hành tu tập và thiền quán nhằm mục đích nắm bắt được phương tiện thực hiện nguyện ước nói trên. Đó là tâm hạnh bồ-đề. Hành giả tu lục độ hay thập độ ba-la-mật.
Nói thí dụ cho dễ hiểu, hai giai đoạn đó là: có ý muốn đi hành hương xứ Phật và cất bước lên đường đi hành hương là hai giai đoạn.
Trong mọi tình huống, điểm quan trọng nhất là tâm nguyện và tâm hạnh không phải chỉ nhắm vào mình hay người thân của mình mà phải nhắm vào lợi ích của chúng sinh. Hơn nữa, phải tu học và thiền định, chuẩn bị bước lên cao, dần dần vào bước tuyệt đối.
♦ Phương diện thứ nhì mang tính cách tuyệt đối: đó là hướng về giác ngộ của chư bồ tát. Đó là đạt được cái nhìn “như thị”, tức là đạt được ngã không và pháp không, đồng thời nhận rõ được Phật tính hiện hữu nơi mỗi chúng sinh.
■ Bồ-đề tâm có ba đức là trí đức, đoạn đức và ân đức:
1/ trí đức là hết mê lầm, hết điên đảo, thấm nhuần sâu xa các lý căn bản của đạo pháp: vô thường, khổ, vô ngã, không.
2/ đoạn đức là dứt sạch phiền não, tham sân si, mạn, nghi, ác kiến, nói chung dứt mọi thứ trói buộc chúng sinh trong khổ đau, sinh tử luân hồi.
3/ ân đức là làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh, “chúng sinh vô biên, thệ nguyện độ” không chỉ đơn thuần là một ước nguyện mà là một bổn phận phải thực hành mỗi lúc, mỗi ngày.
■ Nhà sư Tây Tạng Geshe Kelsang Gyatso (9) đã viết: “Tâm bồ-đề là tâm tôn quý và cao cả nhất của các bậc đã chứng ngộ”. Ông kể chuyện về đại sư Atìsha là người đã chứng đắc nhiều thần thông và chứng ngộ chân không, thiện xảo về Kinh Điển và Mật điển, mà vẫn xác nhận rằng bồ đề tâm là quý báu hơn cả và xác nhận rằng trong số các vị thày của ông thì ông tôn trọng nhất vị thày Ấn Độ tên là Sherlingpa đã dạy tâm bồ đề cho ông. Mỗi khi nhắc đến vị thày này thì ông khóc mà đảnh lễ.
5. Phát bồ-đề tâm hay phát tâm bồ-đề cần được trình bày làm bốn phần:
1/ Đầu tiên là lập chí (lấy nghĩa ở chữ phát) thệ nguyện (lấy nghĩa ở chữ tâm) mong cầu bồ-đề, (lấy nghĩa ở vô thượng bồ-đề), như vậy phát tâm bồ-đề có nghĩa đơn giản là phát nguyện cầu thành Phật. Đây gọi là thệ nguyện phát.
2/ Phát tâm bồ-đề cần phải có nhiều trợ duyên. Thí dụ như được sinh ở nơi có nhiều dịp gặp Phật pháp. Lại phải gặp được thiện tri thức khuyên bảo quy y Tam Bảo, giảng giải kinh sách, chỉ dẫn đường tu và khuyến khích tinh tấn. Sau đó, hoàn cảnh làm ăn cần được suông sẻ để khỏi bị trói buộc quá về sinh kế. Phải chăm đi chùa, được gần gũi nhiều bạn đạo chân thành, chung ý hướng. Lẽ dĩ nhiên điều thứ nhất nói trên đây là chính, mấy điều vừa nói chỉ là trợ duyên. Đây gọi là trợ duyên phát.
3/ Tâm có đặc tính là tri giác, là biết, nhưng nếu biết sai thì là mê hoặc, mà biết đúng thì là giác ngộ. Nói cách khác, tâm có tánh giác ngộ, có tánh bồ đề nhưng bị vô minh tích lũy từ vô thủy che khuất đi, cũng như mặt trời bị mây che khuất vậy. Tu cho đúng để bổn tánh giác ngộ hiện ra, tri giác chuyển thành trí giác (thức chuyển thành trí) tức là bao nhiêu điều biết đều là biết đúng cả, chẳng có sai trệch. Đây gọi là tự tính phát.
Đến chỗ này, chúng ta nhớ lại rằng Lục tổ Huệ Năng đã dạy: “Tự tính bồ đề bổn lai thanh tịnh, vận dụng tâm ấy tức nhiên thành Phật”. “Nào dè tự tánh vốn sẵn thanh tịnh, Nào dè tự tánh vốn không sanh diệt, Nào dè tự tánh vốn sẵn đầy đủ, Nào dè tự tánh vốn không lay động, Nào dè tự tánh có công năng sinh ra muôn pháp”. Tự tánh này chính là chân tâm, là chân không, cái chân không mà lại là diệu hữu! Mà cũng lại là Phật tánh.
Sa-môn Thiện Hoa đã viết trong sách Triết lý Kinh Thủ Lăng Nghiêm: “Ngài A Nan xin Phật dạy cho biết do phương nào mà mười phương chư Phật đã tu hành và đều được chứng quả, thì Phật dạy: chỉ ngộ chân tâm mà thôi. Ngộ được chân tâm, như người tỉnh giấc mộng. Không ngộ được chân tâm, như người còn ngủ chiêm bao. Đó là phương pháp duy nhất mà mười phương chư Phật tu hành đã được thành đạo chứng quả.”
Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, đức Phật đã dạy: “Chân tâm này phi tâm thức, phi bốn đại, phi lục nhập, thập nhị xứ, thập bát giới, phi vô minh và vô minh tận, cho đến phi lão tử và phi lão tử tận, phi tứ đế, phi trí và phi đắc, phi thập nhị nhân duyên, phi lục độ, phi thập hiệu của chư Phật, phi Niết-bàn và bốn đức của Niết-bàn” (nghĩa là phi cảnh giới của tứ thánh là thanh văn, duyên giác, bồ tát và Phật), tóm lại là Chân Tâm phi tất cả các cảnh giới của thế gian (6 cõi phàm) và xuất thế gian (4 quả Thánh).
4/ Khi tu hành thì phải tinh tấn, các ưu điểm phát triển dần dần, hành giả qua các giai đoạn của chứng ngộ, bồ tát lên cao dần trong thập địa cho đến khi đắc vô thượng bồ-đề. Đây gọi là đẳng lưu phát. (10)
■ Trong sách Et si vous m’expliquez le Bouddhisme, tác giả nói rằng:
– Những chướng ngại trên đường cầu bồ đề là: – ham cuộc đời này quá đáng – ham các khoái lạc ở cõi luân hồi này – ham cảnh an lạc ở cõi Niết bàn – không biết đường nào mà đi đến bồ đề.
– Nguyên nhân để đắc được bồ-đề là: chúng ta có sẵn Phật tính.
– Chỗ dựa của bồ-đề là chính cái thân này của chúng ta.
– Các thuận duyên là: được sinh ra làm người, với đầy đủ các căn, sống nơi trung độ, không làm nghề ác, trong một xã hội cởi mở hiểu thế nào là thiện ác, có Phật ở đời, có Phật thuyết pháp, Pháp hãy còn hiện hữu, vẫn còn có người theo Phật pháp và mình có dịp tiếp xúc với Phật pháp.
– Còn nghịch duyên thì cũng nhiều: sinh ra trong ba đường ác, sinh ở cõi thiên, ngu đần tối dạ, ở nơi man rợ, nhiễm nhiều tà kiến, ác kiến, sinh vào thời không có Phật. (11)
6. “Người phát bồ-đề tâm thì làm cách nào mà an trụ trong tâm ấy và làm cách nào mà hàng phục tâm mình?” Kinh Kim Cang (12) cho chúng ta biết các câu trả lời. Kinh mở đầu như sau: Khi ấy, trưởng lão Tu-Bồ-Đề kính bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, những thiện nam, tín nữ phát cái tâm vô thượng chính đẳng chính giác rồi, nên trụ cái tâm ấy như thế nào và hàng phục cái tâm của họ như thế nào?”
Câu hỏi của ngài Tu-Bồ-Đề gồm hai phần: 1/ trụ cái tâm bồ-đề như thế nào? và 2/ hàng phục cái vọng tâm như thế nào?
Phần 1 được Phật trả lời trong phần “Diệu hạnh vô trụ” và phần 2 được Phật trả lời trong phần “Hàng phục cái tâm” của kinh Kim Cang.
■ Hàng phục cái tâm của mình, nói rõ ra là hàng phục cái vọng tâm của mình. Cái vọng tâm ấy là gì? Là cái tâm lăng xăng, chạy nhảy lung tung, như con khỉ chuyền cành. Nói thế là mới chỉ nói nhẹ, chứ vọng tâm là cái tâm chứa đầy sai lầm, điên đảo, coi vô thường là thường, coi vô ngã là ngã, coi khổ là sướng, coi bất tịnh là tịnh, mà nặng nhất có lẽ là cho rằng cái ngã này là thật, suốt ngày, suốt năm, suốt tháng, suốt đời chỉ chăm chăm chú chú lo cho cái ta, cái của ta, từ đó mà tham sân si nổi lên, ác nghiệp chất đầy như núi, làm cho chúng sinh trôi lăn mãi trong vòng sinh tử luân hồi.
■ An trụ tâm bồ-đề là sống đúng theo bồ-đề tâm ấy, lúc nào cũng như lúc nào, không phải lúc có lúc không. Thật là khó! Khó vì nhiều chướng ngại, nhiều phiền não, nhiều chấp trước tích lũy từ vô thủy, biết bao thiên kiến, thành kiến, tà kiến chứa chất trong tâm! Có người nói: “đến như ngài đại đệ tử của đức Phật là ngài Tu-Bồ-Đề còn chưa thông nên mới phải thưa thỉnh đức Phật để được Phật chỉ dạy nữa là”, nhưng theo tôi nghĩ thì thật ra, đây là dịp để ngài Tu-Bồ-Đề khải thỉnh vì lợi ích của mọi người, ngài mong sao lời vàng của đức Thế Tôn đến với mọi người.
■ Đức Phật bảo ông Tu-Bồ-Đề: “Các Bồ-tát lớn nên hàng phục cái tâm như vầy: hết thảy các loại chúng sinh, hoặc do trứng sinh, hoặc do thai sinh, hoặc do ẩm ướt sinh, hoặc do hóa sinh; hoặc có sắc, hoặc không có sắc; hoặc có tưởng, hoặc không có tưởng; hoặc chẳng phải có tưởng, chẳng phải không có tưởng, ta đều làm cho vào vô dư niết-bàn mà được diệt độ”.
Điều này khó hiểu và khi hiểu được mấy danh từ trong đó rồi thì nỗi băn khoăn hiện ra: khó thực hiện quá! Bản thân mình lo chưa xong thì làm sao độ cho hết thảy chúng sinh vào vô dư Niết-bàn? Hết thảy chúng sinh thì đông quá, độ sao nổi! Vô dư Niết-bàn thì còn cao hơn Hữu dư Niết-bàn nữa chứ! Có người bàn: Đó là Phật dạy cho bồ-tát, cho đại bồ-tát, chứ phàm phu như chúng ta “phúc mỏng nghiệp dày” thì lo với cao quá làm chi!
May mắn thay! Đã có lời giải thích: chúng sinh ấy chẳng phải bằng xương bằng thịt đâu! Phải hiểu rằng: mỗi một niệm khởi lên thì kể là một chúng sinh, mà loại chúng sinh này thì quả thật là vô biên. Ý nghĩ nào do si mê mà khởi ra thì coi là noãn sinh, ý nghĩ nào do tham dục mà khởi ra là thai sinh, ý nghĩ nào do tà kiến mà khởi ra là thấp sinh, ý nghĩ nào do vọng tưởng mà khởi ra là hóa sinh! Đó là chúng sinh của tâm thức, gây vô tận phiền não. Độ hết chúng sinh ấy thì hết phiền não! Muốn độ như thế thì phải tu hành đến mức nhận rõ được rằng mọi chúng sinh đó là huyễn, là không thực. Hơn nữa, vạn pháp đều là huyễn. Thế thì tu làm gì? Tu như huyễn!
■ Đức Phật dạy tiếp: “Diệt độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sinh như thế mà thật ra không có chúng sinh nào được độ. Bởi vì sao? Tu-Bồ-Đề! Nếu bồ-tát có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả thời chẳng phải là bồ-tát! Lại nữa, đối với pháp, bồ-tát không nên trụ vào pháp mà bố thí, nghĩa là bố thí mà không trụ vào các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; bố thí mà không trụ vào tướng”.
■ Muốn cho tâm bồ-đề phát sinh thì “dùng cái tâm không vướng bốn tướng ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả mà làm hết thảy mọi việc lành” (dĩ vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ giả, tu nhất thiết thiện pháp). Ngã là ta, là ngôi thứ nhất, là moi, je, me, I; nhân là ngôi thứ nhì, là toi, tu, you; chúng sinh là ngôi thứ ba, là nó, chúng nó, il, elle, ils, elles, he, she, they; thọ giả nói về thời gian nhanh chậm, nhiều ít. Hãy độ cho chúng sinh mà không vướng mắc vào ý nghĩ ta (ngã) là người độ, nó là kẻ được độ (nhân), bao nhiêu loài cũng độ hết (chúng sinh), độ liên tục mọi kiếp, không ngừng nghỉ mỏi mệt (thọ giả).
Thế thì nói ngắn lại là “không trụ vào đâu cả, không vướng mắc vào đâu cả mà phát bồ đề tâm” (ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm). Vậy kết luận là:
1/ muốn an trụ tâm bồ đề thì cứu độ chúng sinh, không phân biệt và
2/ muốn hàng phục vọng tâm thì không thấy thật có mình, có người vv ..
Hai việc này đi song song với nhau, là hai mặt của một đồng tiền.
Đến câu này thì khó hiểu: “pháp còn bỏ huống chi là phi pháp” (pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp). Pháp là điều Phật dạy, phi pháp là ngược lại. Dĩ nhiên phi pháp thì phải bỏ rồi, nhưng pháp thì sao lại bỏ? Bởi vì còn chấp thì còn khổ. Đã dùng bè qua sông rồi, lên bờ rồi, còn vác cái bè trên vai làm chi! Cho nên cần phải tự nguyện làm mọi việc lành vì lợi ích của chúng sinh mà không chấp trước vào đâu hết (vô trụ), không chấp có, không chấp không, không chán sinh tử, không tham luyến Niết-bàn. Đức Phật nói: “45 năm nay, ta chưa dạy một điều nào” là theo ý đó vậy.
Khi đức Phật còn tại thế, có người tìm đến cầu học, hai tay cầm hai bó hoa lớn để cúng dường. Khi thấy người ấy, đức Phật bảo “Buông!”. Ông ta buông tay trái, bó hoa rơi xuống. Đức Phật lại bảo “Buông!”. Ông ta buông tay phải, bó hoa kia cũng rớt xuống đất. Đức Phật lại bảo “Buông!”. Ông ta ngơ ngác, thưa: “Bạch Thế Tôn, con đã buông cả hai tay rồi, còn gì nữa mà buông?”. Đức Phật dạy: “Như Lai bảo ông buông lần thứ nhất là dạy ông buông sáu căn, lần thứ hai là dạy ông buông sáu trần, lần thứ ba là dạy ông buông sáu thức. Khi căn, trần, thức không vướng mắc thì tất cả 18 giới sẽ không sinh khởi, lúc ấy ông được giải thoát.”
7. “Khó quá nhỉ! Tu khó quá nhỉ!” Đó là lời suy nghĩ vắn tắt của người thứ nhất đọc bản thảo của bài tham luận này. Nào tôi có dám nói tu là dễ bao giờ đâu! Khi đem trình bày bài này hầu Hòa Thượng và quý ngài, quý vị, tôi căn cứ vào các tài liệu có sẵn chứ làm gì có kinh nghiệm tu hành mà dám múa bút, tôi chỉ xin trình bày rồi chờ đợi lời chỉ dạy mà khai tâm, mở trí mà thôi.
Đã thọ tam quy, cố gắng trì ngũ giới (mà vẫn sai phạm luôn!), niệm Phật hàng ngày (mà có khi còn lơ là!), chăm đi chùa (mà vẫn trốn vài khi!), phàm phu chúng con xin học thuộc và cố gắng thực hành mấy câu sau này: “Làm hết mọi việc lành, Tránh hết mọi điều ác, Giữ tâm ý trong sạch, Chư Phật dạy như thế.” □
CHÚ THÍCH.
(1) Đại sư Thật Hiền, Phát Bồ-Đề Tâm, HT Thích Trí Quang Việt dịch 1971.
An Exhortation to Resolve upon Bodhi, Comments and Provisional Translation by the Buddhist Text Translation Society 1995, Chùa Vạn Hạnh, Tỳ Kheo Thích Hằng Hiển, San Diego, xb năm 2002.
(2) Đức Phật và Phật pháp, tác giả: Nārada Mahā Thera, dịch giả: Phạm Kim Khánh, Kỳ Viên Tự, Washington DC, 1998.
(3) Nguồn mạch tâm linh, Thích Nữ Trí Hải, Ưu Đàm xb, Montreal, tr.105.
(4) a/ Le Bouddha, Sa vie, Sa Doctrine, Sa Communauté, tác giả: H. Oldenberg (nguyên tác bằng tiếng Đức), nhà xb Félix Alcan, Paris, 1921, nơi trang 110-111, có chú thích như sau: Cunningham (Archoel., Reports, I, 5) dit de l’arbre pippala (ficus Religiosa) situé à Ourel (Bouddha-Gayâ) qu’on croit être cet arbre de la Science: “Le fameux arbre de la Bôdhi existe encore, mais il est tout à fait délabré, un gros tronc, avec trois branches dirigées du côté de l’Ouest, est encore vert, mais les autres branches sont dégarnies d’écorce et pourries & L’arbre doit avoir fréquemment renouvelé car le pippala actuel est debout sur une terrasse élevée d’au moins 30 pieds (9 mètres) au-dessus du pays environnant.” Dans l’intervalle, un orage a détruit l’arbre (1876). Cunningham donne la suite de son histoire dans son Mahabôdhi, p.30.
b/ Nếu tra cứu chữ bodhi tree trong Google thì chúng ta sẽ thấy site sau đây www..angelfire.com/electronic/bodhidharma/bodhi_tree.html
(5) Theo Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn thì Thập lực là mười sức mạnh của trí tuệ như sau:
1/ biết sự đúng sai của sự và lý, biết đoán hậu quả của sự việc.
2/ biết nhân quả của chúng sinh trong ba đời.
3/ biết mức độ tu hành của chúng sinh.
4/ biết tâm tính của đệ tử, của tín đồ và của chúng sinh.
5/ biết chúng sinh hiểu đạo tới đâu, biết các lối nhận hiểu của thế gian và xuất thế gian. 6/ biết hết các cảnh giới giống nhau hoặc khác nhau, các cảnh giới trong mười phương, biết đường đi bất luận đến kết quả nào.
7/ biết hết phần hành hữu lậu của lục đạo đến đâu và phần hành niết bàn vô lậu đến đâu, tức là biết hết các đường đạo mà chúng sinh noi theo để giải thoát.
8/ biết mọi việc của chúng sinh trong vô lượng thế giới, không ngăn ngại; thấy biết việc sinh tử và thiện ác của họ.
9/ biết các đời trước rất xa của chúng sinh.
10/ biết đoạn hẳn các tập khí tức thói quen.
[Niết-bàn kinh, quyển hai: “Chừng thập lực huệ nhựt lặn mất đi rồi, các ngươi sẽ bị màn vô minh che án”.]
(6) Thập như thị. Xin coi một đoạn trong kinh Pháp Hoa, bản dịch của HT Tuệ Hải, chùa Giác Hoàng (Washington, DC, USA) tái bản tại Hoa Kỳ, 1998, trang 53. tướng như vậy, tính như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy , nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy và trước sau rốt ráo như vậy . [► 1/ Such a form. 2/ Such a nature. 3/ Such an embodiment. 4/ Such a potency. 5/ Such a function. 6/ Such a primary cause. 7/ Such a secondary cause. 8/ Such an effect. 9/ Such a recompense. 10/ Such a complete fundamental whole. ► 1/ Ainsité de caractère 2/ Ainsité de nature. 3/ Ainsité d’essence. 4/ Ainsité de force. 5/ Ainsité d’action. 6/ Ainsité de cause. 7/ Ainsité de condition. 8/ Ainsité de fruit. 9/ Ainsité de rétribution. 10/ Ainsité d’égalité première et dernière.]
(7) Thập địa của các Bồ-tát là:
1/ Hoan hỷ địa (the land of joy, terre joyeuse, skt: pramudità-bhùmi)
2/ Ly cấu địa (the land of purity, terre immaculée, skt: vimalà-bhùmi)
3/ Phát quang địa (the land of radiance, terre illuminatrice, skt: prabhàkàrì-bhùmi)
4/ Diễm tuệ địa (the blazing land, terre rayonnante de lumière, skt: archismatì-bhùmi)
5/ Cực nan thắng địa (the land extremely difficult to conquer, terre difficile à conquérir, skt: sudurjayà-bhùmi)
6/ Hiện tiền địa (the land in view of wisdom, terre en vue de la réalité, skt: abhimukhì-bhùmi)
7/ Viễn hành địa (the far-reaching land, terre d’éloignement, skt: dùrangamà-bhùmi)
8/ Bất động địa (the immovable land, terre inébranlable, skt: achalà-bhùmi)
9/ Thiện tuệ địa (the land of good thought, terre d’excellente intelligence, skt: sàdhumatì-bhùmi)
10/ Pháp vân địa (the land of dharma clouds, terre des nuées de dharma, skt: dharmameghà-bhùmi)
(8) The Shambala Dictionary of Buddhism and Zen: The various methods for arousing the mind of enlightenment stem primarily from Atīsha (980/90-1055) and entered into all schools of Tibetan Buddhism through him.
Shāntideva was the author of two surviving works Collection of rules and Entering the Path of Enlightenment.
Shāntideva, Bodhicaryàvatra, một bản dịch ra tiếng Pháp là La Marche vers l’Éveil, Version réalisée par le Comité de Traduction Padmakara d’après la traduction de Louis Finot. Éditions Padmakara, La Besse, France, 1992. Có nhiều bản tiếng Anh và tiếng Pháp. Tôi biết 3 bản tiếng Việt: 1 của đại đức Trí Siêu (Bồ-tát hạnh), chùa Đức Viên xb, San Jose, 1990; 1 của ni sư Trí Hải (Nhập Bồ-tát hạnh) nhà Xuân Thu xb, California, 2001, 1 của Nguyên Hiển (Nhập hạnh Bồ-tát), Hội Phật học Phổ Minh xb, California, 2005.
(9) Buddhism in the Tibetan Tradition, tác giả là nhà sư Tây Tạng Geshe Kelsang Gyatso; ni sư Trí Hải dịch ra tiếng Việt với đầu đề Phật Giáo Truyền Thống Đại Thừa, Ưu Đàm Montreal phát hành. Coi trang 327 và kế tiếp. Gyatso còn viết cuốn Understanding the Mind ( Tìm hiểu cái Tâm), chưa dịch ra tiếng Việt.
(10) Ngài Huệ Năng, Thích Trí Quang, Phật học Viện Quốc Tế California xb.
(11) Et si vous m’expliquez le Bouddhisme, tác giả là nhà sư Tây Tạng Ringou Tulkou Rimpotché, préface de Mathieu Ricard, traduit de l’Anglais et adapté par Corinne Segers et Inès Wouters, NiL Éditions, Paris, 2001.
(12) Kinh Kim Cang Giảng Lục, tác giả: Thái Hư đại sư, dịch giả: TT Thích Huệ Hưng, chùa Tuyền Lâm tái bản, Saigon, 1970, PL.2514. □

Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú

………………………………………………………………………………………

BƯỚC VÀO CỬA PHẬT-Quyển 2-Montreal 2010

Hoằng Hữu Ngyễn Văn Phú

Đề tài ôn tập : Bài 14. YẾT-ĐẾ , YẾT-ĐẾ
Hàng ngày tụng kinh – hầu như bất cứ kinh nào – tất cả chúng ta đều phải tụng thêm Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh, gọi ngắn là Tâm kinh; kinh này kết thúc bằng lời chú: “Yết -đế. Yết-đế. Ba la yết-đế. Ba la tăng yết-đế. Bồ-đề tát-bà-ha”. Các bài chú bằng tiếng Phạn thường được để y nguyên, không dịch. Bài chú trên đây có nghĩa đại khái như sau: “Qua đi. Qua đi. Tất cả qua bờ bên kia. Tất cả tích cực qua bờ bên kia. Sự giác ngộ được viên thành nhanh chóng.”
Bờ bên kia là gì? Ta thường nghe rằng chúng sinh và Phật chỉ khác nhau ở một điểm: một đằng là mê, một đằng là ngộ. Chúng sinh bị vô minh che lấp nên mê mờ, trôi lăn mãi trong vòng sinh tử luân hồi. Muốn được thành Phật thì phải tu tập để sang bờ bên kia tức là bờ giác ngộ vậy. Chúng ta tự hỏi: giác ngộ cái gì, và giác ngộ để làm gì?
Thứ nhất là giác ngộ rằng thế nào là khổ. Điều này chúng ta đã được nghe giảng nhiều lần. Ở đây chỉ xin nhấn mạnh rằng khi đạo Phật nói “đời là bể khổ”, thì trong đó không có tư tưởng yếm thế, bi quan gì cả, đó chỉ nói lên một sự thật mà thôi. Sự thật này ít người muốn nói đến, vì theo tâm lý thông thường ở đời, người ta thích nghe những gì vui, những gì hợp với sự ham muốn của mình. Lại có người tuyên bố: “tôi chẳng thấy đời khổ ở chỗ nào cả, mà có lúc khổ thì có lúc sướng, đâu có phải khổ hoài đâu”. Đối với những người lý luận như vậy, đạo Phật dạy cho biết rằng: niềm vui sướng nếu có cũng chỉ có nhất thời mà thôi, khi mất vui sướng thì sẽ khổ. Đó là lý vô thường. Trong tất cả các cái khổ thì cái khổ lớn nhất của chúng sinh là sinh tử luân hồi.
Đến đây chúng ta nói sang sự giác ngộ thứ nhì: đó là giác ngộ về lý nhân duyên quả báo, gọi tắt là lý nhân quả. Người ta thường nói vắt tắt: trồng dưa thì được dưa, trồng đậu thì được đậu. Nói vậy quá đơn giản. Hạt đậu (thí dụ cho nhân) cần phải có một số điều kiện thuận tiện (gọi là thuận duyên) như đất, nước, phân bón, ánh sáng, sức người chăm nom, v.v… ) mới thành cây đậu và cho quả đậu được. Nếu hạt đậu gặp một số điều kiện xấu (gọi là nghịch duyên) thì rất có thể không có cây đậu, hoặc sẽ có cây đậu èo uột, quả đậu dẹp lép v v…
Luật nhân quả là một luật của vũ trụ, chúng sinh và các đức Phật không xoay chuyển được luật ấy.
Biết luật nhân quả thì hiểu được nghiệp. Nghiệp là tổng hợp tất cả những điều gì ta nghĩ, nói, làm trong các kiếp trước và kiếp này. Những điều ấy sẽ quyết định đời sống của chúng ta trong kiếp sau. Nói vắn tắt, ai làm lành thì kiếp sau sẽ sướng, ai làm ác thì kiếp sau sẽ khổ. Đó là đại khái như vậy thôi, thật ra chúng ta có thể ảnh hưởng đến nghiệp báo của chúng ta bằng các ý nghiệp, khẩu nghiệp, thân nghiệp của đời này. Không muốn giảng giải dài dòng, các thầy tướng số chỉ nói ngắn “đức năng thắng số”, có ý bảo rằng thiện nghiệp đời này có thể là những duyên làm thay đổi cái nghiệp báo tức là cái quả mà mình phải gánh trong kiếp này hay kiếp sau. Kiếp sau chưa hẳn là kiếp người. Theo đạo Phật có tất cả mười cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh (ba ác đạo), a-tu-la, nhân, thiên (ba thiện đạo), thanh văn, duyên giác, bồ-tát, Phật (bốn thánh đạo). Vào thánh đạo thì không còn sinh tử luân hồi nữa.
Trên đã nói, cái khổ nhất của thế gian là sinh tử luân hồi. Muốn dứt sinh tử luân hồi thì cần phải dứt ba nghiệp. Muốn dứt nghiệp thì phải tu tập để thanh tịnh ba nghiệp. Vậy sự giác ngộ thứ ba của người con Phật là tu để dứt nghiệp. Tu thế nào?
Kinh sách nói đến tám mươi tư ngàn pháp môn để tu, ý nói là rất nhiều pháp môn. Nói vậy, người nghe dễ phát sợ. Thật ra, có thể nói vắn tắt lại, cách tu thứ nhất là giữ năm giới: không sát sinh, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối, không uống rượu. Giữ được năm giới này cũng là khó khăn lắm rồi. Kiếp sau sẽ làm người. Nhưng Phật dạy “qua đi, qua đi. . . ”, vậy chớ dừng ở đó. Hãy tu thập thiện: không sát sinh, không trộm cắp, không tà hạnh (ba giới của thân); không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói đâm thọc, không nói lời thô ác (bốn giới của miệng); không tham lam, không sân hận, không tà kiến (ba giới của ý). Tu được như vậy thì kiếp sau sẽ lên cõi thiên. Ở cõi thiên tuy sung sướng nhưng vẫn còn sinh tử cho nên lại phải cố gắng “qua đi, qua đi … ”. Tu hạnh thanh văn, duyên giác để chứng vô sinh (không sinh ắt sẽ không chết, tức là bất tử, đạo Phật không dùng chữ bất tử – chữ này chỉ cái quả – mà dùng chữ vô sinh – chữ này chỉ cái nhân ). Nhưng theo quan niệm của Đại thừa Phật giáo thì phải vượt lên nữa, tu Bồ-tát đạo để không những độ cho mình mà còn độ cho chúng sinh. Độ đây là chở cho mọi người qua sông mê để bước lên bờ giác ngộ của chư Phật. “Chúng sinh bao nhiêu thệ nguyện độ” là như vậy. Thành bồ-tát, có thể thành Phật, nhưng còn giữ nguyện độ chúng sinh nên lưu lại cõi sa bà “vén tay áo xông vào giữa chợ” để cứu muôn loài. Vậy thì câu hỏi “giác ngộ để làm gì?” đã có câu trả lời rất đơn giản như sau: giác ngộ để biết đường tu hành ngõ hầu thoát vòng sinh tử và để độ chúng sinh.
Các bậc bồ-tát giác ngộ được thực tướng của vũ trụ, hiểu được rằng tất cả sự sự vật vật trong vũ trụ này đều thấm nhuần một thứ duy nhất không thể dùng lời nói mà tả ra được, thứ đó “bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm” tạm gọi là bản thể của sự vật. Còn nhiều tên khác để chỉ “cái đó”, thí dụ Phật tánh, Phật thân, Chân tâm, tự tánh Di-Đà v. v. . .
Đến được bậc ấy là hết tham sân si, hết cái ta, hết sinh tử luân hồi, như vậy gọi là chứng Niết-bàn; Niết-bàn gồm ba thứ “hết” vừa nói trên, Niết-bàn không phải là nơi chốn như ta vẫn hiểu thông thường, coi đó là thiên đường để hưởng phúc.
Vậy thì “qua đi, qua đi” mang ý nghĩa thúc đẩy, thúc đẩy tiến lên nữa, chớ dừng lại giữa đường, chớ lấy hóa thành làm bảo sở, phải nhằm cứu cánh Niết-bàn. “Tích cực qua đi, tất cả tích cực qua đi” nhằm mục đích khuyến khích tinh tấn cố gắng tu hành, mọi người đều cần cố gắng. Giác ngộ là giác ngộ những điều Phật đã giác ngộ.
Đối với phàm phu chúng ta, nói thì dễ, biết thì khó, làm được còn khó nữa. Vậy thì trên thực tế, trong hoàn cảnh tranh đấu để làm lại cuộc sống nơi quê hương mới này, giữa thời mạt pháp, mười người tu thì thoái chuyển đến chín, chúng ta phải nghĩ gì, làm gì?
Sau đây là một cách đơn giản để tu tập: chúng ta hãy dành thời giờ học hỏi Phật pháp để nâng cao hiểu biết, suy nghĩ kỹ lưỡng về những điều đức Phật đã dạy để nâng cao trí tuệ, thực hành niệm Phật hàng ngày để an cái tâm, tịnh cái nghiệp nhằm mục đích thanh tịnh hóa ba nghiệp, đồng thời chăm lo bố thí (tài thí, pháp thí và vô úy thí). Còn về đời sống hàng ngày, muốn cho “đỡ khổ”, chứ chưa dám nói “hết khổ”, thì chúng ta hãy tuân theo lời đức Thế Tôn đã dạy cần phải “thiểu dục tri túc”, nghĩa là “ham muốn ít, biết cái gì mình đang có là đủ rồi”. Cũng có người dùng phép ngồi thiền thay thế cho phép niệm Phật. Cái đó tùy căn cơ của mỗi người. Chỉ cần nhớ rằng: thiền, cần phải có người dạy cho đúng phương pháp nếu không sẽ lạc; thí dụ nếu chỉ tập thở không thôi thì chưa đủ gọi là thiền được, chúng ta nên thận trọng.
Chỉ mấy điều ấy thôi cũng đã đủ để chúng ta có hành trang lên đường theo Phật.
Kính chúc quý đạo hữu lúc nào cũng “ba la yết-đế” để “bồ-đề tát-bà-ha”

Hoằng Hữu Nguyễn Văn Phú

…………………………………………………………………………..

Một số Chùa Việt ở Thái lan hiện nay
Nguồn:RFA-Anh Vũ, thông tín viên RFA-2015-09-06

chua o Thai Lan.jpeg1
Lễ Vu lan Báo hiếu tại chùa Cảnh Phước (Wat Samananam-korihan), Bangkok. Chùa Cảnh Phước ở Thái Lan theo tên sư trụ trì là một người Việt. Chùa cũng có tên Thái là Somananam Bhorihan

Cách đây khoảng 200 năm, cùng với sự xuất hiện của cộng đồng người Việt ở Thái lan thì một số ngôi Chùa người Việt cũng được xây cất lên. Tuy nhiên cho đến hôm, các ngôi Chùa Việt đó còn tồn tại và hoạt động như thế nào?

Phật giáo Việt nam du nhập vào Thái lan vào khoảng thế kỷ thứ 18 và những ngôi Chùa Việt đầu tiên được xây dựng bởi những Phật tử thuộc Hoàng tộc triều Nguyễn, chạy sang lánh nạn tại nước Thái trong bối cảnh giao tranh giữa Chúa Nguyễn và nhà Tây sơn, giai đoạn (1768-1782 ).

Phái Việt tông ở Thái Lan

Khi đó Phật giáo VN được coi là tôn giáo của tầng lớp quý tộc VN, nên được các Vua Thái hết sức ủng hộ và giúp đỡ. GS. Đỗ Thúy Hà, một nhà nghiên cứu tại Viện Đại học Chulalongkorn, Thái lan nói với chúng tôi:

“Đó là cái may mắn của tông phái Việt tông. Theo biên niên sử của Thái có ghi lại, Vua Thái Rama VI trước khi làm Vua thì gần như suốt đời đi tu và có quen biết với Hòa thượng Thích Chân Hưng, người đứng đầu Phật giáo của người Việt ở Xiêm lúc đó, nên đã giúp đỡ rất nhiều. Từ thời Vua Rama VI thì lễ nghi của Việt tông được giới thiệu vào trong Hoàng cung, đầu tiên là lễ công đức.”

Đến thời Vua Rama V, Phật giáo Việt Nam được công nhận chính thức và có tên là Annamnikaya. Kể từ đó nhiều ngôi Chùa thuộc dòng Annamnikaya được xây dựng, để đáp ứng nguyện vọng của cộng đồng người Việt tại Xiêm lúc đó. GS. Đỗ Thúy Hà cho biết:

“Đến thời Vua Rama V thì chính thức công nhận 2 tông phái của Phật giáo Đại thừa trong Phật giáo ở Thái lan. Đó là cái may mắn của tông phái Việt tông, bởi vì kể từ khi đó không có tông phái nào được đăng ký thêm. Đáng chú ý, mặc dù cộng đồng người Trung quốc đến Thái trước người Việt từ rất lâu, song đến thời Vua Rama V cũng chưa có một ngôi chùa Trung quốc được ghi nhận ở Thái cả. Cho đến bây giờ các Chùa Việt ở Thái còn rất có uy tín trong cộng đồng người Thái gốc Hoa.”

Theo biên niên sử của Thái có ghi lại, Vua Thái Rama VI trước khi làm Vua thì gần như suốt đời đi tu và có quen biết với Hòa thượng Thích Chân Hưng, người đứng đầu Phật giáo của người Việt ở Xiêm lúc đó, nên đã giúp đỡ rất nhiều. Từ thời Vua Rama VI thì lễ nghi của Việt tông được giới thiệu vào trong Hoàng cung

GS. Đỗ Thúy Hà

Đến nay, Chùa Việt nam thuộc Annamnikaya đã có 16 ngôi chùa nằm rải rác ở một số tỉnh trên đất Thái, như Chanthaburi, Chachoengsao, Udol, Songkhla… song chủ yếu là tập trung ở khu vực trung tâm cũ của thủ đô Băng cốc. Tuy vậy đến nay, các ngôi Chùa Việt lâu nay đã vắng bóng các Phật tử và tu sĩ gốc Việt. Và những người Thái lan gốc Hoa đã có vai trò rất mạnh để lên thay thế người VN.

Ông Nguyễn Văn Chính, chủ tịch Hội Việt kiều tỉnh Udol, đồng thời là một Phật tử khẳng định:

Chùa Khánh Vân – Wat Upairadbamrung (thuộc tông Annam tại Thái Lan)

“Chùa Việt ở Thái lan tôi nghe có 20 chùa, nhưng bây giờ không có người Việt nào vào tu ở đây hết. Còn ở tỉnh Udol của chúng tôi cũng có một ngôi chùa Việt, nghe nói tụng kinh Phật bằng tiếng Việt nam, tôi chỉ nghe nói vậy. Bình thường 1 năm có 4 ngày lễ lớn thì nhà Chùa mời tất cả các phật tử người Hoa, người Việt, người Thái đến dự lễ.”

Vẫn hoạt động theo truyền thống Phật giáo Việt nam

chua o thai lan 2

Chúng tôi đã đến Chùa Kusolsamakorn, có tên Việt là Chùa Phổ Phước, nằm tại Yaovarath – khu vực buôn bán sầm uất nhất của người Hoa thường được biết đến dưới tên China Town. Đồng thời cũng là trụ sở Văn phòng của tông phái Việt tông. Tại đây, kiến trúc và cách bài trí tượng Phật và đồ thờ cúng trong Chùa vẫn mang đậm bản sắc của Chùa Việt nam, tuy nhiên bên ngoài thì trang trí những họa tiết của Phật giáo Trung hoa. Trao đổi với chúng tôi, Sư thầy Mahaknanay Thamapanyathiwatr cho biết:

Đại ý Sư thầy cho biết rằng đây là một ngôi Chùa Việt, do người Việt xây dựng cách đây khoảng 200 năm, nhưng đến nay thì không có tăng ni, phật tử người Việt. Hiện nay nhà Chùa vẫn gìn giữ và hoạt động theo truyền thống Phật giáo Việt nam, tuy vậy cũng đã có sự thay đổi một ít sinh hoạt để phù hợp với truyền thống Phật giáo Thái lan và văn hóa của người Thái gốc Hoa.

Trong âm thanh mà quý thính giả vừa nghe ở trên, có xen lẫn tiếng tụng kinh trong một buổi lễ của Chùa và được biết bản sắc văn hóa VN vẫn được cố gắng gìn giữ tại các Chùa Việt cho đến nay đó là các bài kinh kệ được tụng theo lối An nam tông – xen lẫn tiếng Phạn và tiếng Việt.

Chúng tôi cũng đến Chùa Uphairath Bamrung, tên Việt là Chùa Khánh Vân, là ngôi chùa của Hòa thượng Thích Chân Hưng được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX bằng tiền của 2 đời Vua Thái Rama IV và Rama V ban tặng. Qua quan sát chúng tôi thấy ngôi chùa này theo kiến trúc Việt nam và trong chùa có một khu vực dành để nói về Chúa Nguyễn Ánh. Trao đổi với chúng tôi, một vị sư trong Chùa không muốn nêu danh tính cho biết:

Đến đời Vua Rama V thì các lễ nghi quan trọng trong Hoàng cung bắt buộc phải mời các Hòa thượng Việt tông vào làm lễ và kể từ đó cho đến bây giờ thì tât cả các lễ tang trong Hoàng cung, nếu chưa có các Hòa thượng Việt tông đến làm lễ thì coi như là lễ tang chưa xong

GS. Đỗ Thúy Hà

Đại ý ông cho biết rằng, đến nay các Sư và Tiểu vào tu trong dòng Việt tông đều là người Thái và người Thái gốc Hoa, những người này không biết tiếng Việt nam mà chỉ tập tụng kinh và học thuộc lòng đủ để thực hiện các nghi lễ tôn giáo. Phật tử đến chùa cũng chỉ có người Thái gốc Hoa. Trừ các vị Cao tăng còn ăn chay, còn lại các vị sư khác cũng phải đi khất thực và ăn mặn như Phật giáo truyền thống. Ông còn cho biết thêm, ở chùa này thỉnh thoảng cũng có các vị sư ở Việt nam sang với mục đích tìm hiểu và học tập.

Chúng tôi cũng có đến thăm một số ngôi Chùa Việt khác ở Băng cốc và có cảm giác chung là trống vắng.

Tuy vậy, Phật giáo Việt tông vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong tín ngưỡng Phật giáo ở Thái lan. GS. Đỗ Thúy Hà nhận định:

“Đến đời Vua Rama V thì các lễ nghi quan trọng trong Hoàng cung bắt buộc phải mời các Hòa thượng Việt tông vào làm lễ và kể từ đó cho đến bây giờ thì tât cả các lễ tang trong Hoàng cung, nếu chưa có các Hòa thượng Việt tông đến làm lễ thì coi như là lễ tang chưa xong. Có nghĩa là bắt buộc phải cóthì mới đúng lễ nghi. Cho đến bây giờ, các bộ quần áo hay mũ của các Hòa thượng dùng làm lễ trong Hoàng cung vẫn được đặt từ Huế sang.”

Đến nay, hiện tượng bản sắc văn hóa Phật giáo Việt nam ở các Chùa Việt cũng đã và đang bị mai một một cách đáng kể. Thay vào đó là các tập tục của Phật giáo Thái lan, và các hình thức nghi lễ đã có nhiều thay đổi để phù hợp với sắc tộc và nền văn hóa của người Hoa để tồn tại. Đó là chưa kể đến một ngôi Chùa Việt đến nay đã bị bỏ hoang. GS. Đỗ Thúy Hà nói:

“Thực ra vấn đề này tôi cũng đưa về VN để trao đổi với Giáo hội nhiều lần, trong các đại lễ vô sắc tôi cũng có nói và đưa các Hòa thượng từ VN qua và các vị đó cũng biết vấn đề đó. Song đó là một vấn đề hết sức nhạy cảm, vì cái đó hiện trực thuộc của Phật giáo Thái lan rồi.”

Phật giáo Việt tông, hay tông phái Annamnykaya đến Thái lan cùng thời Chúa Nguyễn Ánh sang lánh nạn ở Xiêm và trở thành một bộ phận quan trọng của Phật giáo Thái lan. Việt tông, một trong 3 tông phái chính thức được công nhận của Phật giáo ở Thái lan.

………………………………………………………………

Share

Leave a Reply

Your email address will not be published.

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Paid Links